“Bên cạnh
những kết quả đã đạt được, đô thị Việt Nam còn nhiều hạn chế và chưa đáp ứng
yêu cầu phát triển, số lượng đô thị tăng nhanh nhưng chất lượng chưa được quan
tâm đúng mức; đồng thời, phải đổi mặt với những vấn đề toàn cầu
Lãng phí tài nguyên đất, biến tướng quy hoạch
TS. Trương Văn Quảng đánh giá, cùng với quá trình công nghiệp
hóa - hiện đại hóa đất nước, tốc độ đô thị hóa của Việt Nam ngày càng tăng
nhanh, hệ thống đô thị quốc gia được quan tâm đầu tư phát triển cả về số lượng
và chất lượng. Nhiều đô thị, điểm dân cư nông thôn, khu công nghiệp, khu kinh
tế, du lịch, kết cấu hạ tầng… đã được quy hoạch, đầu tư xây dựng mới hoặc cải
tạo mở rộng để đáp ứng nhu cầu phát triển mới của đất nước.
“Năm 1998, tỉ lệ đô thị hóa mới đạt khoảng 24%, năm 2013 khoảng
32%... Và đến năm 2015, đã đạt 35,7%. Quy hoạch xây dựng đã thực sự góp phần
tạo ra nguồn lực trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong đó, kinh
tế đô thị góp khoảng 70% GDP cả nước; các chỉ số thu ngân sách của các vùng
tỉnh và đô thị lớn cho thấy nhìn chung, tăng trưởng kinh tế ở khu vực đô thị
đạt trung bình từ 12 - 15%, cao gấp 1,2 - 1,5 lần so với mặt bằng chung trong
cả nước”, TS. Quảng dẫn chứng.
Bên cạnh đó, hệ thống hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật đô thị,
kể cả khu vực nông thôn được quan tâm đầu tư xây dựng theo hướng đồng bộ, hiện
đại, tiếp
cận thị trường condotel
hotel. Nhìn chung, diện mạo kiến
trúc, đô thị, nông thôn Việt Nam đã có nhiều thay đổi theo hướng hiện đại, có
bản sắc...
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, theo TS. Quảng,
đô thị Việt Nam còn nhiều hạn chế và chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, số lượng
đô thị tăng nhanh nhưng chất lượng chưa được quan tâm đúng mức.
Cụ thể, hệ thống hạ tầng kỹ thuật và xã hội còn thiếu, không
đồng bộ và quá tải. Chất lượng kết cấu hạ tầng tại các đô thị vẫn còn thấp như
hệ thống giao thông đô thị chậm phát triển, thiếu đồng bộ; hệ thống cấp nước
sạch và thoát nước của nhiều đô thị đã xuống cấp và lạc hậu, tình trạng ngập
úng cục bộ, ô nhiễm môi trường ngày càng tăng do rác thải, nước thải chưa được
xử lý.
“Đặc biệt, quá trình xây
dựng, phát triển đô thị còn sử dụng lãng phí tài nguyên đất đai, môi trường,
tiêu hao nhiều năng lượng và phát thải lớn, gây mất cân bằng sinh thái…”, TS.
Quảng nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, đô thị Việt Nam cũng đang phải đối mặt với những
vấn đề toàn cầu như cạnh tranh đô thị, tác động của biến đổi khí hậu, nước biển
dâng... Đây là những thách thức lớn, ảnh hưởng không nhỏ đến diện mạo đô thị,
điều kiện môi trường sống của người dân và đảm bảo yêu cầu phát triển bền vững,
đặt ra nhiều vấn đề mới trong công tác quy hoạch, xây dựng, quản lý phát triển
đô thị hiện nay.
Chỉ rõ các nội dung về lãng phí tài nguyên đất và sự biến tướng
của quy hoạch, TS. Quảng cho biết: Gần đây, trong quá trình phát triển đô thị,
nhiều địa phương đã lấy phương thức phát triển các dự án “khu đô thị mới” làm
chiến lược trọng tâm. Phương thức này cùng có những ưu điểm và về cơ bản đã và
đang góp phân làm tăng quỹ nhà ở (với các căn hộ có chất lượng tốt hơn các căn
hộ được xây dựng trước năm 1975), góp phần thay đổi diện mạo kiến trúc, hướng
tới các đô thị hiện đại...
Tuy nhiên, cũng cần phải nhận thức rõ hiện nay, nhiều dự án còn
thiếu một mô hình, một khuôn mẫu, thiên về mô hình kinh doanh bất động sản hơn
là một tầm nhìn cho sự phát triển bền vững đô thị.
Vậy nên, nhiều địa phương còn rất hào phóng cứ đâu có đất trống,
ít phải giải phóng mặt bằng là ban phát các dự án cho chủ đầu tư mà không cần
đếm xỉa đến quy hoạch chung, đến lợi ích lâu dài của đô thị, của cộng đồng.
Bởi thế, đã hình thành nhiều dự án ảo, chiếm dụng đất để kinh
doanh là chính. Đó là chưa kể sự biến tướng của các dự án phát triển khu đô thị
mới như tăng mật độ xây dựng, chiều cao công trình, diện tích sàn xây dựng hoặc
chuyển chức năng sử dụng đất từ dịch vụ công cộng sang công trình hỗn hợp có
chức năng nhà ở... Chệch hướng quy hoạch.
“Vẫn biết rằng, đô thị không phải là một “phép cộng”, gộp các
khu đô thị mới nhỏ, lẻ, rời rạc với đủ các loại nhãn mác, đa dạng về phong
cách, chủng loại và chất lượng của nhiều loại doanh nghiệp tham gia đầu tư xây
dựng với mục đích kinh doanh bất động sản nhiều hơn là nâng cao chất lượng
không gian đô thị... Một “phép cộng” vô hồn để cầu mong tạo nên một đô thị có
hồn và diện mạo kiến trúc, cảnh quan đô thị đẹp có chất lượng...”, TS. Quảng
chia sẻ.
Một thực tế khác cũng được TS. Quảng chỉ ra, đó là, khi đồ án
Quy hoạch đô thị đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, lẽ đương nhiên đất đai
(phần mở rộng) phát triển đô thị theo quy hoạch là đất dành để phát triển đô
thị.
“Tuy nhiên, thực tế không phải vậy, chúng vẫn là vùng đất nông
nghiệp, đất ngoại thị, chính quyền có thể vẫn còn là cấp xã... Và khi nghe tin
đã có quy hoạch đô thị được duyệt thế là thị trường bất động sản bùng phát sôi
động (công khai hoặc ngấm ngầm)”.
Theo TS. Quảng, việc chuyển nhượng, mua đi, bán lại, đầu cơ đất
đai không theo quy hoạch là chuyện thường tình mà chưa có chế tài nào điều
tiết. Và cho đến khi thực hiện quy hoạch thì mọi việc về đất đai, xây dựng
dường như đã an bài theo quy luật thị trường tự phát.
“Hoặc như khi mở một tuyến đường đô thị, chúng ta chỉ quan tâm
đến bản thân con đường mà “vô tình” bỏ quên việc quy hoạch quản lý đất đai,
không gian kiến trúc, cảnh quan dọc tuyến. Thế là lại góp phần sinh ra cái gọi
là “đường hiện đại, phố nhà quê” như nhiều báo chí đã phê phán”, TS. Quảng lấy
ví dụ.
TS. Quảng cũng thẳng thắn đề cập đến năng lực quản lý đô thị.
Bên cạnh căn bệnh “nhiệm kỳ”, triết lý “quyền xin là của các nhà đầu tư, quyền
cho là quyền năng của các nhà quản lý”... Là sự buông lỏng, hay yếu kém trong
năng lực của một bộ phận quản lý phát triển đô thị được giao quyền.
Không thể đổ lỗi mãi cho quy hoạch
TS. Quảng cho rằng, quy hoạch xây dựng là một sản phẩm của tư
duy. Triển khai xây dựng đô thị theo quy hoạch là việc biến “kịch bản” của tư
duy thành sản phẩm thực tiễn. Chất lượng sản phẩm quy hoạch đô thị phụ thuộc
vào chất lượng tư duy của các nhà hoạch định chiến lược, quy hoạch phát triển
đô thị. Còn việc biến “kịch bản” của tư duy thành sản phẩm thực tiền là tài
nghệ của các nhà quản lý, xây dựng, nhà đầu tư.
“Chính vì thế, chúng ta
không thể chỉ phiến diện đổ lỗi mãi cho quy hoạch về tình trạng xây dựng lộn
xộn tại các đô thị bởi thiếu quy hoạch hoặc “quy hoạch treo”. Hãy thử hỏi ngay
tại nhiều đô thị của Việt Nam, khi quy hoạch chung đô thị và phần lớn các quy
hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì tình
trạng lấn chiếm, xây dựng trái phép, xây dựng không theo quy hoạch đã được hạn
chế hoặc giảm thiểu tới mức nào? Câu trả lời là: Không đáng kể! Mà ngược lại nó
còn bức xúc, gay gắt hơn nhiều”, TS. Quảng nêu quan điểm.
Hoặc tại TP. Hà Nội, TP.HCM, đất đai trong các quận quy hoạch
phát triển mới đã có những biến động lớn như thế nào khi mà nhiều phương tiện
thông tin đại chúng phải lên tiếng và chính quyền thành phố phải ra tay, cưỡng
chế thu hồi.
“Vậy đâu là nguyên nhân? Phải chăng tư duy trong quản lý xây
dựng cũng đã chậm hơn so với thực tiễn hoặc chưa đáp ứng được một cách tích cực
những nhu cầu và đòi hỏi của thực tiễn trong quản lý quy hoạch và xây dựng?”,
TS. Quảng đặt câu hỏi.
Đô thị được coi là một tổ hợp không gian vật chất. Bởi vậy, theo
TS. Quảng, nó không đơn thuần chỉ do các nhà quy hoạch đô thị, các kiến trúc
sư, kỹ sư xây dựng tạo nên. Đô thị là sản phẩm chung của xã hội mang tính đa
ngành, đa lĩnh vực...
Nếu không có sự phối hợp đa ngành tốt, đô thị vẫn luôn mắc phải
chuyện sáng lát vỉa hè, chiều đào lên đặt ống cấp nước, mặt đường cứ vô tư được
nâng cao sau mỗi lần trải “thảm nhựa”, mặc kệ sự úng ngập nhà dân hai bên tuyến
phố do không theo kịp cốt đường. Mạng thông tin, chiếu sáng như mớ bòng bong,
giăng mắc, lơ lửng giữa trời, phủ kín từ trung tâm đến tận cùng các ngõ phố. Hệ
thống biển quảng cáo đủ kích cỡ, đủ sắc màu... Được lắp dựng tuỳ hứng ở bất cứ đâu
có thể... Tất cả đã góp phần tạo nên sự hỗn độn, thiếu sự quản lý, ảnh hưởng
lớn đến diện mạo kiến trúc, cảnh quan chung đô thị.
“Thiếu vắng sự phối hợp đa ngành hay quản lý mang tính đa ngành,
đô thị như bản giao hưởng thiếu “ông nhạc trưởng” để quán xuyến chung, làm mất
đi vẻ đẹp, các cung bậc tài hoa, đầy sáng tạo mà lẽ đương nhiên tự thân bản
giao hưởng phải có”, TS. Quảng so sánh.
Do đó, để phát triển đô thị, theo TS. Quảng, cần phải huy động
mọi nguồn lực có trong xã hội từ nhân tài, vật lực, vốn đến cơ chế chính sách.
Các kết quả đạt được của Việt Nam trong thời gian qua như đẩy mạnh cải tạo, mở
rộng các đô thị cũ, phát triển thêm nhiều đô thị mới, với mức tăng tỷ lệ đô thị
hoá từ 24% năm 1998 lên 35,7% vào năm 2015 đã khẳng định hiệu quả cao của chính
sách đa dạng nguồn vốn và chủ đầu tư.
Việc đa dạng nguồn vốn, đa dạng chủ đầu tư tất nhiên cũng sẽ dẫn
đến đa dạng các loại sản phẩm. Trong nền kinh tế thị trường, các sản phẩm quy
hoạch đô thị, kiến trúc công trình được sinh ra từ nhiều nguồn vốn, chủ đầu tư.
Trong đó, có sản phẩm tốt, trung bình, nhưng cũng có rất nhiều sản phẩm xấu...
Vậy, cách thức, công cụ quản lý nào để các sản phẩm có được chất
lượng tốt, góp phần thúc đẩy quá trình phát triển đô thị hiệu quả nhất? Lấy ví
dụ từ việc xây mới tuyến phô Kim Liên - Ô Chợ Dừa (Hà Nội), TS. Quảng cho rằng:
“Lẽ ra Hà Nội phải điều chỉnh, cấu trúc lại việc sử dụng đất kèm theo các quy
định phải đảm bảo về tầng cao, hình thức kiến trúc, vật liệu, màu sắc công
trình dọc hai bên tuyến đường... Và nhất thiết phải có công cụ (tạo hành lang
pháp lý) đủ mạnh để định hướng, quản lý, kiểm soát chất lượng các loại sản phẩm
đó, góp phần thúc đẩy quá trình phát triển đô thị Việt Nam có chất lượng”.
Vấn đề mà TS. Quảng băn khoăn, đó là phải chăng chúng ta đang
thiếu một công cụ quản lý hữu hiệu, một đội ngũ quản lý phát triển đô thị, có
tâm, có tầm?
“Đã đến lúc chúng ta không phải chỉ tăng cường, nâng cao năng
lực, trình độ quản lý của các tổ chức, cá nhân, chính quyền các cấp, nhận thức
của cộng đồng bằng lý thuyết, bằng khẩu hiệu... Mà cần thiết phải “luật hóa” và
“bình đẳng hóa” trước pháp luật các hành vi tham gia hoạt động trong lĩnh vực
quy hoạch, xây dựng và quản lý đất đai xây dựng theo quy hoạch, quản lý “dòng
chảy” bất động sản theo hướng phản ánh trung thực nhu cầu phát triển thật của
đô thị, góp phần hạn chế tình trạng tư duy chậm hơn thực tiễn hướng tới việc
giảm dần, giảm hẳn những hậu quả xấu mà trong quá trình đô thị hóa lẽ ra đã có
nhiều cơ hội để chúng ta tránh được”, TS. Quảng đề xuất./.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét