Có bao giờ các bạn tự đặt đặt ra câu hỏi thế nào là thành phố thông minh, thành phố chúng ta ở hiện tại đã là thành phố thông minh chưa ?
Thành phố Thông minh là gì?
Tác giả đề xuất cần phải áp dụng đầy đủ tất cả các khâu của vùng
“cứng” (như tăng cường tính hiệu quả của giao thông đô thị hay sử dụng năng
lượng) và vùng mềm (chẳng hạn như nâng cao chất lượng giáo dục, bảo tồn di sản
kiến trúc, bảo vệ các hệ sinh thái dễ bị tổn thương, hỗ trợ tinh thần khởi
nghiệp, có chính sách thu hút người tài…) khi tiếp cận với Thành phố thông
minh.
Một trong những xu hướng thu hút đầu tư vào các thành phố hiện
nay trên thế giới là chiến thuật branding – xây dựng thương hiệu cho thành phố, thị
trường condotel hotel, một chiến thuật phổ biến là thuê một KTS thuộc hạng “ngôi sao”
(kiểu như các KTS nhận Giải thưởng kiến trúc Prizker), thiết kế một công trình
tạo điểm nhấn cho thành phố – Ví dụ Jean Nouvel thiết kế những tòa tháp (khá
giống nhau) cho thành phố Barcelona (Tây Ban Nha) và Doha (Qatar). Chiến lược
này xem chừng ngày càng ít hiệu quả bởi các KTS ngôi sao thường không đổi mới
được phong cách của mình, đâu đâu cũng thấy một loại kiến trúc tương tự nhau.
Có thể kể ra ví dụ: KTS Frank Ghery trong các công trình Gian hòa nhạc Walt
Disney tại Los Angeles và Bảo tàng Gugenheim Bilbao, hay Jean Nouvele với những
tòa tháp hình viên đạn đầu tù…
Chiến lược branding thứ hai cho thành phố, có vẻ bài bản và tốn
kém hơn là khoác cho nó thương hiệu thành phố Thông minh.
Theo Caragliu và Nijkamp 2009: “Một thành phố được coi là “thông minh” khi
nguồn đầu tư vào con người và vốn xã hội và hạ tầng giao thông và hệ thống công
nghệ thông tin hiện đại hỗ trợ phát triển kinh tế bền vững và chất lượng cuộc
sống cao, đi kèm một sự quản lý khôn ngoan các tài nguyên thiên nhiên, thông
qua hành động tham dự của công dân.”
Có thể thấy đây là một định nghĩa khá chuẩn, khá tham vọng
và…khá lý thuyết về thành phố thông minh. Nhưng đây mới là định nghĩa của giới
hàn lâm về thành phố thông minh. Trong thực tế, các dự án thành phố thông minh
được khởi xướng và vận hành như thế nào?
Hai cách tiếp cận với thành phố thông minh
Vào năm 2014, nhóm nghiên cứu của GS Neirotti thuộc Đại học
Torino (Ý) sau khi khảo sát 70 dự án về Thành phố Thông minh tại khắp các châu
lục trên thế giới đã chỉ ra rằng: Chưa có một sự đồng thuận chung nào về thành
phố Thông minh (3). Mặc dù vậy, có một sự thống nhất lớn rằng: Việc sử dụng
công nghệ thông tin và truyền thông (Information and Communication Technolog
hay ICT) giúp cho thành phố sử dụng có hiệu quả hơn tài nguyên của mình. Cần
lưu ý một chút: Công nghệ thông tin chỉ là một phần của thành phố thông minh.
Xin nói thêm, công nghệ thông tin ở đây là công nghệ thông tin
sử dụng theo thời gian thực. Tức là các dữ liệu truyền về trung tâm gần như
ngay lập tức và được xử lý bằng các hệ thống phân tích dữ liệu. Ví dụ tại
Barcelona, các cảm biến được đặt tại những bãi đỗ xe và truyền dữ liệu về hệ
thống trung tâm. Hệ thống này sau đó lại truyền tín hiệu đến các biển báo điện
tử đặt tại những nơi công cộng cho phép người dân biết được tình trạng còn
trống hay không của bãi đỗ xe (4). Những hệ thống ICT kiểu như thế này hỗ trợ
các nhà hoạch định chính sách trong việc đưa ra các quyết định đúng đắn. Tuy
nhiên, phần ít được nói trong các dự án về thành phố Thông minh – nhưng lại là
một khía cạnh không thể thiếu đó là: Thành phố thông minh phải là một thành phố
đầu tư vào vốn xã hội và đầu tư vào con người.
Nhóm nghiên cứu của GS Neirotti nhận thấy có hai cách tiếp cận
cơ bản đến thành phố Thông minh: Một là cách tiếp cận “cứng”, trong đó công
nghệ thông tin được sử dụng với mức độ cao. Hoạt động và các quyết sách của
loại thành phố này được hỗ trợ bởi công nghệ truyền tín hiệu không dây, sử dụng
các cảm biến tích hợp trong hệ thống hạ tầng và phát triển các phần mềm để xử
lý những gói dữ liệu lớn (5). Cách tiếp cận thứ hai được gọi là “mềm” – hay từ
dưới lên (bottom-up). Trong cách tiếp cận này, công nghệ thông tin chỉ đóng một
vai trò hạn chế, quyền tiếp cận các dữ liệu thuộc về người dân và cho phép họ
tự đưa ra quyết định của mình. Cách tiếp cận mềm dựa trên những nền tảng như
giáo dục, chính sách, văn hóa, khuyến khích thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp,
sáng kiến, sự bao gồm xã hội6 (social in clusion), tăng cường truyền thông giữa
chính quyền và người dân. Vì vai trò hạn chế của nó nên hệ thống công nghệ
thông tin không nhất thiết phải là giao tiếp theo thời gian thực.
Điều thú vị khi các nghiên cứu của nhóm Neirotti chỉ ra rằng:
Các thành phố đầu tư nhiều vào vùng “cứng” thường ít đầu tư vào vùng “mềm” và
ngược lại. Nghiên cứu cho thấy ở châu Á các dự án thành phố thông minh tập
trung nhiều vào giao thông, trong khi ít tập trung vào các sáng kiến tăng cường
hiệu quả của chính quyền, kinh tế và con người. Trong khi đó ở châu Âu các dự
án lại nhấn mạnh vào khía cạnh mềm của phát triển thành phố thông minh.
Các kết luận quan trọng nhất của nhóm nghiên cứu là các thành
phố ở các quốc gia sử dụng internet nhiều dễ có khả năng phát triển các sáng
kiến trong vùng “mềm” hơn. Đó là phát triển Thành phố Thông minh trong lĩnh vực
chính quyền và kinh tế (chẳng hạn xây dựng chính quyền điện tử, thương mại điện
tử, thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp). Họ khẳng định tầm quan trọng của công nghệ
thông tin và vốn xã hội trong việc cho phép thực hiện chính quyền điện tử và
thương mại điện tử dựa trên sự minh bạch và trao quyền cho người dân (citizen’s
empowerment).
Thứ hai, thành phố nhỏ cho phép thực hiện các dự án thực nghiệm
ở quy mô hạn chế – Ít bị trì trệ, ít bị ràng buộc bởi đầu tư đã có vào hệ thống
công nghệ thông tin. Thành phố lớn ngược lại đối mặt với nhiều nhu cầu hơn về
mặt thay đổi công nghệ thông tin nhưng lại dễ dàng thu hút các nhà đầu tư công
nghệ thông tin hơn bởi thị trường lớn hơn.
Những điểm chung của các thành phố Thông minh trên khắp thế
giới: Thành lập các đặc khu kinh tế, sử dụng năng lượng tái tạo, các tòa nhà
thông minh, giao thông thông minh, kết nối băng thông rộng, cân đối giữa không
gian xanh và không gian có mái, nằm tại vị trí mang tính chiến lược về mặt địa
lý. Những thành phố thông minh điển hình như: 1) Songdo IBD (Hàn Quốc); 2)
Hwaseong Dongtan (Hàn Quốc); 3) Masdar City, Abu Dhabi; 4) PlanIT Valley (Bồ
Đào Nha); 5) Thành phố thông minh, Malta.
Các tác giả cũng cảnh báo: Một thành phố có hệ thống công nghệ
thông tin hoàn hảo và các sáng kiến thông minh không nhất thiết là một thành
phố sống tốt. Thay vì nêu cao các giá trị con người và chất lượng cuộc sống,
thành phố dễ trở thành một môi trường mà trong đó công dân bị kiểm soát chặt
chẽ, quyền riêng tư dễ bị vi phạm (7). Thêm vào đó, khả năng tiếp cận với các
dữ liệu lớn và hệ thống xử lý trung tâm cũng đặt ra vấn đề phải đối mặt với các
loại tội phạm công nghệ thông tin hoặc khủng bố.
Kết luận
Cần cẩn trọng khi tiếp cận chủ đề Thành phố Thông minh. Phải đặt
ra các câu hỏi chẳng hạn như liệu có nên thực hiện một dự án thành phố thông
minh khi chúng ta chưa đủ điều kiện. Khi mà những vấn đề thiết yếu của đô thị
như chống ngập lụt hay giảm ô nhiễm môi trường chưa được đáp ứng. Mặt khác,
chúng ta cũng không quá bảo thủ để bỏ qua cơ hội sử dụng công nghệ thông tin
trong việc nâng cao hiệu quả quản lý đô thị. Cách khả dĩ và cẩn trọng là phải
áp dụng đầy đủ tất cả các khâu của vùng “cứng” (như tăng cường tính hiệu quả
của giao thông đô thị hay sử dụng năng lượng) và vùng mềm (chẳng hạn như nâng
cao chất lượng giáo dục, bảo tồn di sản kiến trúc, bảo vệ các hệ sinh thái dễ
bị tổn thương, hỗ trợ tinh thần khởi nghiệp, có chính sách thu hút người tài.)
trong khái niệm thành phố thông minh. Có như thế mới đáng công sức và tiền của
để xây dựng thành phố thông minh. Bởi vì xây dựng thành phố thông minh là làm
quy hoạch, mà vấn đề của quy hoạch suy cho cùng vẫn là những vấn đề Who get
What – Ai nhận được gì?
0 nhận xét:
Đăng nhận xét